Phạm Đình Trọng
30-12-2025

Lời thưa: Đầu tháng 12.2025, Quốc Hội khóa 15 họp phiên cuối cùng, kết thúc nhiệm kỳ 5 năm. Có lịch sử 80 năm với 15 khoá, gần mười ngàn người được mang danh đại biểu của dân trong Quốc Hội, vậy mà thực tế cho thấy ngay khái niệm Quốc Hội cũng chưa được nhận thức đúng nên trong Quốc Hội còn nhiều đại biểu chưa xứng tầm đại biểu cho trí tuệ và ý chí của người dân Việt Nam. Ít ngày nữa, đảng cử dân bầu lại cho ra đời khoá Quốc Hội mới.
Bài viết này là mong ước về những khoá Quốc Hội mới thực sự là đại biểu của trí tuệ và khí phách Việt Nam.
***
CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ QUỐC HỘI ĐỂ CÓ NGHỊ SĨ QUỐC HỘI XỨNG TẦM
1. Ngôn ngữ dân gian có từ “ông kễnh” để chỉ con cọp và cũng để chỉ ông quan to. Có một thời dân gian miền Bắc gọi quan to là ông cốp. Vừa rồi một ông kễnh của các ông kễnh ra lệnh: Nghiên cứu bổ sung cơ cấu có đại biểu Quốc Hội là người khuyết tật!
Ông kễnh đứng đầu các ông kễnh còn hiểu không đúng về Quốc Hội, còn nhận thức Quốc Hội như tổ chức tập hợp đại biểu các thành phần dân cư, các ngành nghề lao động, các sắc tộc, tôn giáo trong xã hội thì Quốc Hội của ta thực chất chỉ là tổ chức thể hiện hình ảnh đại đoàn kết dân tộc như Mặt Trận Tổ Quốc được mang tên Quốc Hội mà thôi.
Trong tất cả các bản hiến pháp của nhà nước công nông Việt Nam từ 1946 đến nay không có điều khoản nào đòi hỏi Quốc Hội phải có đủ các thành phần dân cư trong xã hội, phải thể hiện hình ảnh đại đoàn kết dân tộc.
Các bản hiến pháp của nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đều xác định: “Quốc Hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước”, Điều 69 Hiến pháp 2013.
Để làm được những việc đại sự quốc gia: Lập hiến, lập pháp, quyết định những việc hệ trọng của dân, của nước, đưa xã hội Việt Nam nhịp bước với thời đại, hoà nhập với xã hội loài người trong thế giới văn minh phát triển, Quốc Hội phải thu hút, tập hợp được những trí tuệ, tinh hoa của dân tộc, tập hợp những khí phách làm nên lịch sử hiển hách bốn ngàn năm và mang hồn thời đại đã qua văn minh công nghiệp đến văn minh tin học.
Người khuyết tật là người yếu thế, cơ thể khiếm khuyết, một bộ phận cơ thể đã mất đi hoặc đã liệt không thể hoạt động. Không kém mắt thì cũng nặng tai. Không cụt tay thì cũng mất chân. Năng lực làm việc không mất hết cũng chẳng còn được bao nhiêu, không làm việc được như người bình thường. Người khuyết tật là người tàn tật, những sinh hoạt thông thường, nhỏ nhặt hàng ngày cũng cần có người giúp đỡ. Nay trở thành đại biểu Quốc Hội thì người khuyết tật làm sao đủ sức khoẻ và trí tuệ gánh vác được việc đại sự của dân, của nước!
Được quyền ban phát lời vàng chỉ đạo cấp dưới, răn dạy muôn dân, các quan rất hay dùng từ nhân văn. Đưa người khuyết tật vào Quốc Hội là buộc người không còn năng lực làm việc bình thường phải gánh vác đại sự quốc gia, khai thác đến tận cùng sức tàn của người khuyết tật là sự nhẫn tâm như sự bóc lột bất lương của địa chủ cường hào, của tư bản hoang dã thì nhân văn ở chỗ nào?
Vì nhận thức “cơ cấu Quốc Hội cần có đại biểu là người khuyết tật” nên Quốc Hội ta nhiều khoá từ trước đến nay chỉ là tập hợp đại biểu của các thành phần dân cư, với đủ các sắc màu trang phục. Nhà sư là người đã rũ bỏ bụi trần, xa lánh cõi tục, xa lánh thế sự xô bồ biến động, tìm về cõi lặng cửa thiền, tĩnh tâm thờ Phật cũng trở thành đại biểu Quốc Hội! Trong nghị trường bên váy áo thổ cẩm rực rỡ hoa văn của người phụ nữ rẻo cao là sắc vàng chiếc áo thụng trùm kín, buông xuôi của vị hoà thượng.
Không quan tâm đến chức năng Quốc Hội, không quan tâm đến đòi hỏi năng lực tư duy của nghị sĩ Quốc Hội, chỉ quan tâm đến cơ cấu có đủ các thành phần dân cư mà trong Quốc Hội có ông giáo sư y khoa Nguyễn Anh Trí, chuyên gia chuyên sâu về máu, có chức danh khoa học cao, đã là đại biểu Quốc Hội nhiều khóa mà vẫn không hiểu vai trò, chức năng của Quốc Hội, ông nghị giáo sư y khoa đòi Quốc Hội phải cùng chính phủ vào cuộc xử lý vụ việc hành chính hàng ngày của đời sống xã hội, Quốc Hội phải làm rỏ đúng sai, hay dở một tác phẩm văn chương đang xôn xao trong đời sống văn hoá xã hội!
Có ông đại biểu Quốc Hội Nguyễn Văn Cảnh xênh xang khăn đóng, áo dài như cụ lý trưởng ở đình làng thời xa xưa. Giữa nghị trường Quốc Hội, ông đòi các nghị sĩ khi ở nghị trường phải khăn đóng thít trên đầu, áo dài ngũ thân lụng thụng trên người như các quan văn võ trong lễ thiết triều của nhà vua thời phong kiến. Để tỏ ra sâu sát thời cuộc, ông nghị khăn đóng, áo dài lại đòi Quốc Hội phải làm cả việc của bộ Thông Tin Truyền Thông, phải có tiếng nói với thị trường điện thoại, cần phân nhóm sim điện thoại số đẹp giá khởi điểm cao nhất là 200 triệu đồng.
Bà nghị Đặng Thị Mỹ Hương đòi hỏi luật về giáo dục phải đưa hướng nghiệp vào chương trình giáo dục ngay từ trường mầm non. Lại có bà nghị Tô Ái Vàng đưa tuổi thọ của đàn ông, đàn bà ra Quốc Hội. Lý giải tuổi thọ trung bình của nam giới thường ngắn hơn nữ giới từ 5 đến 10 năm, bà nghị Ái Vàng đòi Quốc Hội phải có giải pháp.
Còn nhiều lắm những đại biểu Quốc Hội chỉ có tầm nhìn vụ việc vụn vặt, cho thấy, dù các đại biểu Quốc Hội đều có bằng cấp văn hoá, học hàm, học vị cao nhưng mặt bằng dân trí của Quốc Hội không cao đã biến cuộc họp Quốc Hội thành cuộc họp của tổ dân phố, bàn những vụ việc vụn vặt bất tận của đời sống xã hội. Ở vị trí quốc gia nhưng không có tầm nhìn quốc gia, không có tầm tư duy chính sách, chỉ quen tư duy vụ việc, những kiến nghị của các ông bà nghị Nguyễn Anh Trí, Nguyễn Văn Cảnh, Tô Ái Vàng tưởng là nghiêm túc trong nghị trường Quốc Hội, đã trở thành chuyện đàm tiếu mua vui, chuyện hài hước ở quán nước hè đường.
Các khóa Quốc Hội đều có nhiều ông bà nghị sĩ như ông nghị Nguyễn Anh Trí, ông nghị Nguyễn Văn Cảnh, bà nghị Tô Ái Vàng. Với những đại biểu tầm nhìn hạn hẹp, tư duy manh mún như vậy, Quốc Hội phải mất khá nhiều thời gian nghe những ý kiến vụn vặt của đời sống xã hội. Những đại biểu Quốc Hội với tầm nhìn hạn hẹp, tư duy manh mún tham gia làm luật, tất yếu thời gian làm luật phải kéo dài và chất lượng luật cũng không thể cao, không tương xứng với đòi hỏi của cuộc sống, của nhân dân, đất nước. Vì vậy luật vừa ban hành đã lạc lõng với đời sống xã hội, phải liên tục sửa đi, sửa lại.
2. Con vật chỉ có hình hài thể xác, chỉ tồn tại trong không gian. Con người có sức mạnh làm chủ muôn loài bời ngoài hình hài con người thể xác, con người còn có tầm vóc con người văn hoá xã hội. Con người thể xác tồn tại bằng vật chất trong hiện tại và mưu cầu được thoả mãn mọi thèm khát của thân xác. Con người văn hoá xã hội tồn tại trong thời gian bằng tâm hồn, trí tuệ và có nhu cầu được thể hiện năng lực, được đóng góp cho sự phát triển của xã hội loài người, cho cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp.
Trí tuệ, tâm hồn cho con người biết tư duy, cho con người tư tưởng thắp sáng lý tưởng xã hội. Cuộc sống vô cùng sinh động và đa dạng. Lý tưởng xã hội của con người cũng vô cùng sinh động và đa dạng. Nhận thức về xã hội khác nhau, tư duy khác nhau, tư tưởng khác nhau, lý tưởng xã hội cũng khác nhau.
Những người có chung lý tưởng xã hội trong một quốc gia gặp nhau trong một tổ chức chính trị, hình thành các đảng chính trị. Mọi lý tưởng xã hội lành mạnh, chính đáng đều cần có đảng chính trị để theo đuổi lý tưởng xã hội, biến lý tưởng thành hiện thực. Không có xã hội bình thường, lành mạnh nào chỉ có một lý tưởng xã hội. Vì vậy cũng không có xã hội bình thường, lành mạnh nào chỉ có một tổ chức chính trị, chỉ có một đảng chính trị. Một đất nước chỉ thực sự có dân chủ khi đất nước có đa đảng chính trị và Quốc Hội thực sự đại diện cho ý chí, lý tưởng xã hội của người dân.
Không đại diện cho các thành phần, nghề nghiệp dân cư. Không đại diện cho sắc tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác. Không đại diện cho các đặc thù về hình hài con người cơ thể, Quốc Hội chỉ đại diện cho những lý tưởng xã hội, đại diện cho những con người văn hoá theo đuổi những lý tưởng xã hội chính đáng, đại biểu của các tổ chức chính trị. Quốc Hội là nơi hội tụ những người có tư tưởng, có lý tưởng xã hội khác nhau đều vì mục đích dân giàu nước mạnh, đều có nhu cầu đóng góp ý tưởng, đóng góp trí tuệ cho dân, cho nước.
Ở nhà nước chuyên chính vô sản như nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ có một đảng chính trị là đảng cộng sản cầm quyền. Đảng cộng sản dù có lịch sử cầm quyền lâu dài, có đảng số lớn tới năm, sáu triệu đảng viên, chiếm một phần hai mươi dân số cũng chỉ đại diện cho một lý tưởng xã hội trong nhiều lý tưởng xã hội chính đáng, lành mạnh và tồn tại bền bỉ trong dân.
Đều cùng mục đích dân giầu, nước mạnh, những người có lý tưởng xã hội khác với lý tưởng xã hội của đảng cộng sản dù không có tổ chức chính trị nhưng lý tưởng xã hội của họ vẫn tồn tại trong dân, trong cuộc sống, mang khát vọng chính đáng của người dân, của cuộc sống. Họ cần thiết và xứng đáng là đại diện của dân trong Quốc Hội. Trong cuộc bầu cử công bằng, tự do, những người mang khát vọng của dân, mang lý tưởng xã hội của dân đều đủ sức thu hút được sự đồng tình của dân để đủ phiếu bầu trở thành đại biểu xứng đáng của dân trong Quốc Hội.
Trong các bản hiến pháp của nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đều có điều khoản để hiền tài trong dân mang lý tưởng xã hội của dân, mang khát vọng chính đáng của dân có tiếng nói trong Quốc Hội. Điều 27, hiến pháp 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc Hội, Hội đồng nhân dân”.
Nhưng các cuộc bầu cử Quốc hội từ 1959 đến nay đều diễn ra trong khuôn phép của nhà nước chuyên chính vô sản, “đảng cử, dân bầu”. Mọi ứng cử viên đại biểu Quộc Hội đều phải được Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức trong cơ cấu quyền lực của đảng cộng sản cầm quyền, một thiết chế trong nhà nước chuyên chính vô sản lựa chọn, giới thiệu và người được lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên đại biểu Quốc Hội phải là người hợp ý, vừa lòng đảng, dù những ứng cử viên đó chẳng hề có lý tưởng xã hội và tầm vóc con người văn hóa xã hội không đủ lớn để đại diện cho dân.
Người dân tự ứng cử vào Quốc Hội dù hợp pháp, đủ tiêu chí ứng cử viên nhưng không vừa ý đảng cầm quyền đều phải chịu trận xúc phạm nhân phẩm, khủng bố tinh thần trong cuộc họp danh nghĩa là tổ dân phố nhận xét ứng cử viên Quốc Hội nhưng thực chất tổ dân phố chỉ là tập hợp dư luận viên, hồng vệ binh của chính quyền sôi sục vu tội, đấu tố để loại bỏ người dám cả gan tự ửng cử Quốc Hội. Cuộc đấu tố người tự ứng cử vào Quốc Hội cũng sôi sục như cuộc vu tội, đấu tố, loại bỏ người bị vu là địa chủ thời cải cách ruộng đất!
“Đảng cử – dân bầu” đã vô hiệu hóa điều 27 hiến pháp 2013, vô hiệu hóa quyền công dân, quyền tự do ứng cử, bầu cử của người dân. Do “đảng cử – dân bầu” mà trong Quốc Hội có quá nhiều những ông bà nghị sĩ như Nguyễn Anh Trí, Nguyễn Văn Cảnh, Tô Ái Vàng và Quốc Hội không thực sự là nơi đại diện cho trí tuệ, hiền tài trong dân, không thực sự là đại biểu của dân!
- Chỉ những người có con người văn hóa xã hội đủ lớn mới có tư tưởng, có lý tưởng xã hội. Đó là tinh hoa của dân, là hiền tài trong dân. Bầu cử thực sự dân chủ, tự do, Quốc Hội mới phát hiện và tập hợp được hiền tài trong dân. Chỉ hiền tài trong dân, tinh hoa của dân mới đủ trí tuệ thời đại và khí phách dân tộc lo việc dân, việc nước, mới gánh vác được việc lập hiến, lập pháp, mới đủ trí lự quyết định những việc hệ trọng của đất nước và trở thành chính khách đích thực.
Tập hợp được những người có con người văn hóa xã hội đủ lớn, có tư tưởng, có lý tưởng xã hội, Quốc Hội các nước dân chủ đều là môi trường rèn luyện, thử thách, hình thành những chính khách lớn, những nhà lãnh đạo quốc gia, những nhà chính trị có tiếng nói, có vị trí trong chính trường thế giới.
Nhà lãnh đạo quốc gia có con người văn hóa xã hội đủ lớn, có lý tưởng xã hội, được thử thách, rèn luyện và hình thành con người chính khách từ Quốc Hội thì không thể có ông bộ trưởng bộ Văn Hoá, bộ trưởng bộ Lễ Nguyễn Văn Hùng ra sân bay đón quốc khách của nước mà ông bộ trưởng bộ Văn Hoá nước chủ nhà nghênh ngang đi giữa thảm đỏ dành cho quốc khách, đẩy quốc khách ra rìa thảm đỏ!
Hình ảnh ông bộ trưởng bộ Văn Hoá Nguyễn Văn Hùng nghênh ngang đi giữa thảm đỏ, đẩy quốc khách mà ông đi đón ra nền xi măng sân bay, cho thấy ông bộ trưởng bộ Văn Hoá mà hoàn toàn vắng bóng, thiếu hụt con người văn hóa xã hội!
